Thời bao cấp đối với thế hệ trẻ
8X, 9X là những câu chuyện, mẩu ký ức vụn vặt của ông bà ta kể lại. Đó là quá
khứ một thời sống lam lũ, khốn khổ với nhiều cung bậc cảm xúc: vui có, buồn có,
cay đắng và thương cảm cũng có.
Kéo dài từ đầu 1976 đến cuối năm
1986, thời kỳ bao cấp là giai đoạn đất nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế Việt Nam dần chuyển qua chế độ tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều
phối. Từ đó đến nay, gần 30 năm chúng ta đã vượt qua được khoảng thời gian với
nhiều tấn bi hài cười ra nước mắt. Những câu chuyện thời kỳ này chỉ còn trong tranh
ảnh hay những mẩu ký ức vụn vặt do ông bà kể lại. “Sống thời bao cấp” của nhà
báo Ngô Minh viết về những trải nghiệm, cảm xúc khi được sinh ra và lớn lên trọn
vẹn trong khoảng thời gian nhiều khốn khó nhưng cũng không kém phần “cổ tích”.
Với lời văn nhẹ nhàng, sắc bén pha chút hóm hỉnh, quyển sách chính là cầu nối giúp
chúng ta hiểu thêm được phần nào tâm tư, tình cảm của ông bà, cha mẹ - những
con người sinh ra và lớn lên trong thời
kỳ kinh tế lao đao. Đọc để có thêm góc nhìn mới lạ về lịch sử Việt Nam những
năm 70-80s thế kỷ 20, để quý trọng những thứ mình đang có trong hiện tại.
Thời thơ ấu
Vùng quê Quảng Bình những năm 40 nghèo khổ và quanh năm cơ cực. Cuộc sống của người dân nơi đây đều phụ thuộc vào chài lưới và nghề trồng khoai sắn. Thời ấy vẫn chưa có sổ gạo nên cả làng ít nhà có cơm ăn. Khoai lang hàng ngày được chế biến thành đa dạng món luộc, nấu canh, phơi khô… Có lẽ vì thế chăng mà người dân Quảng Bình thường có câu nhại: “Quảng Bình.. khoai khoai toàn khoai!”.
Thời ấy, nhà chỉ đơn thuần là nơi
được dựng lên với cây phi lao gọt nham nhở, mái lợp hay phên che toàn bằng cỏ
rười, nằm chơ vơ trên nền cát trắng. Cả làng hầu như không có nhà nào xây
toilet. Ai có nhu cầu muốn đi vệ sinh thì ra bãi cát hay lội biển. Cát cả một
vùng trời mênh mông, kiếm một gốc dương hay gốc dại là đã đủ để giải tỏa “bầu tâm
sự”. Trẻ con thời ấy lên 11, 12 tuổi, học đến lớp 2, lớp 3 rồi mà vẫn cởi tồng
ngồng đi chơi khắp xóm. Nào là đánh khăn, bắt còng, bắt cáy,… chơi suốt ngày
nên đứa nào cũng tóc đỏ, tóc vàng như người Hàn Quốc.
Năm 1963, chính phủ bắt đầu xếp ngư dân và diêm dân vào hàng “tiểu thủ công nghiệp”. Dân biển xứ nghèo, nhà nào cũng bảy tám đứa con chật trong chật ngoài. Nhờ ơn sổ gạo và phiếu tem vải mà gánh nặng cơm áo gạo tiền giờ đây đã được giảm gánh phần nào. Không còn cảnh phải bám biển ngày đêm, gạo vẫn kìn kìn tới tháng gánh về. Đầu tháng là cảnh người người nhà nhà xếp rồng rắn trước Cửa hàng Lương thực chợ Mai trên Quốc lộ 1 mua gạo. Có gạo có vải cuộc sống của dân làng đỡ đần hơn phần nào. Tuy nhiên, vẫn còn phảng phất đâu đó cái đói và nghèo vẫn đeo bám dai dẳng. Bữa cơm hàng ngày chủ yếu là cơm độn với khoai sắn. Những ngôi nhà vẫn cứ đứng chỏng chơ giữa mênh mông bãi cát với cỏ tranh, cỏ rười và cột gỗ dương lụp xụp. Đói vẫn hoàn đói, hình ảnh những gia đình thiếu ăn chạy vạy từng bữa cơm vẫn còn đó….!
Thời bao cấp có 1001 câu chuyện để kể, trong đó chắc chắn không thể không nhắc tới đề tài đi xem phim. Mỗi năm ở Quảng Bình hay có nhiều đội chiếu bóng lưu động về tới xóm làng. Tiếng loa phát thanh vang lên khắp nơi, làm nao lòng cả người già và trẻ nhỏ: “Hôm nay đội chiếu bóng số 175 sẽ phục vụ bà con hai bộ phim thời sự và phim truyện…”. Từ lúc mặt trời chưa tắt, mọi người đã háo hức đến sớm giành chỗ trước. Đến tám giờ tối, sẽ có thông báo trên loa: “Buổi chiếu bóng xin phép được bắt đầu.” Tiếng gió biển rì rào đập vào, khiến màn ảnh bay phần phật như những lá cờ. Đứa trẻ nào cũng mừng rơn, ngóng cổ dài nhìn lên màn ảnh.
Rất ít khi được xem phim tâm lý của Đông Đức hay Ba Lan vì các phim này
được xem là phim đồi trụy. Thỉnh thoảng vẫn lọt ra vài phim, hôn nhau chán chê,
chàng ấn nàng xuống rồi chuyển sang cảnh “xong rồi”, chỉ thế thôi nhưng dân
chúng sướng mê man. Đôi khi chàng kéo tay nàng hoặc bế xốc nàng chạy vào buồng
trong rồi chuyển sang cảnh “xong rồi”
Mỗi đầu buổi chiếu thường có ông
chủ tịch xã lên phát biểu, “huấn thị” bà con. Huấn thị là mốt mà cán bộ thời đó
người nào cũng chuộng. Các vị lãnh đạo thôn, xã ai cũng như quyển sách chính trị lưu động. Chục buổi như
một, ngày nào ông chủ tịch xã cũng đằng hắng rồi lên giọng: “Hôm nay tôi xin
nói với bà con ba điểm cần quán triệt… Điểm thứ nhất là…”. Xong hết chục điểm
cái thứ nhất, rồi thêm sáu bảy lượt “điểm thứ hai là..” khán giả ở dưới ngủ như
rươi.
Sau hòa bình năm 1954, vùng Ngư
Thủy hoàn toàn không có trường học. Chương trình Bình dân học vụ cũng chưa về
được tới đây. Trẻ con làng này chỉ biết đến cát và cá mà không hề biết đến con
chữ. Mãi đến sau này có thầy giáo Quảng Bá Hùng tốt nghiệp Trường Trung cấp Sư
phạm Hải Dương mới xung phong về làng quê nghèo nhận công tác. Giờ học đầu tiên
tại trường cấp Một Ngư Thủy, thầy cầm tay từng đứa học trò nắn từng nét chữ cái
a, bờ, cờ, i tờ, tờ i ti… Chữ thầy đẹp,
lại nắn nót cẩn thận. Thầy bảo: “Cái chữ là nết người. Các em phải học viết chữ
cho đẹp, đàng hoàng.” Những câu nói, hình ảnh đẹp ngày hôm ấy mãi khắc sâu vào
tâm khảm của từng đứa học trò cho đến ngày hôm nay.
Các năm tháng tiếp theo, tác giả
học hết trường làng lên trường huyện, từ trường huyện lên trường tỉnh, bao
nhiêu năm đi học là chừng ấy năm nhiều gian khổ với cả mồ hôi và nước mắt. Bù lại,
sự gian nan đã trui rèn nên bản lĩnh của con người. Mùa thi đại học năm 1968,
nhận được giấy báo trúng truyển đại học Thương mại, cả làng đều mừng cho ông. Vậy
là chính thức bước sang thời sinh viên với nhiều mộng mơ cùng sự lãng mạn chất
bao cấp.
Thời sinh viên
Sinh viên thời bao cấp được Nhà
nước chăm lo đến “tận răng”. Tiền ăn đến tháng
chỉ đóng 18 đồng là hàng ngày xách bụng đến canteen mà không phải suy
nghĩ nhiều. Đến cả bát đũa cũng được trường sắm. Ăn xong để lại sẽ có người rửa
cho.
Tùy theo thời kỳ, có khi phải ăn độn ngô, bo bo, sắn khô nhưng ở Hà Nội chủ yếu là độn mì. Buổi sáng sinh viên nội trú xuống nhà nhận một cục luộc (bột mì nhào nước nặn giống như cái bánh bao sau đó cho vào chảo luộc) vừa cứng vừa khô rất khó nuốt. Bữa trưa cơm độn với mì sợi, bữa chiều mì sợi độn với cơm.
Cứ đến giờ cơm là mấy ngàn sinh
viên cùng tập trung lại nhà ăn, ồn ào và náo nhiệt. Tiếng bát đũa liên tục kêu
leng keng. Trong góc phòng được đặt một thùng rô-mi-nê nước gạo rang pha muối. Dành cho sinh viên
nào thiếu thức ăn thì dùng thêm. Cuộc sống sinh viên thời bao cấp, ngó vậy chứ
đơn giản đến vô cùng.
Năm 1968, trường Đại học Thương mại
chuyển về huyện Kim Động, Hưng Yên. Sống xa thủ đô, không có đầy đủ điều kiện vật
chất, sinh viên ngày bữa cơm bữa mì luộc. Một mâm cơm quay sáu đứa một xoong,
tuyền một loại canh rau muống nước lỏng bỏng. Gọi là “canh toàn quốc”. Đồ ăn cứ
thế đặt xuống dưới đất, rồi cả nhóm cùng quay quần lại, chia nhau mỗi người một
cục mì luộc to bằng nắm đấm.
Nhắc đến thời sinh viên, không ai
không nghĩ đến chuyện yêu đương. Yêu thì chẳng ai cấm, nhưng nhất định không được
hôn. Cặp đôi nào chưa cưới mà hôn nhau để người khác thấy đều bị liệt vào diện
lăng nhăng, không đàng hoàng. Ký túc xá đã ngăn chia rõ ràng nam riêng nữ
riêng. Từ chín rưỡi đêm cấm con trai qua khu của con gái. Có anh bạn tên Khoa,
quê ở Hải Phòng, học lớp Kinh doanh hàng Công nghệ phẩm 4 yêu cô Sò. Nghỉ hè
năm 3, sinh viên về hết chỉ còn hai đứa nán lại. Tối đó anh chị lên sân thượng
hôn nhau say đắm. Tưởng không ai thấy hóa ra có ông bảo vệ lên kiểm tra cầu
thang chứng kiến. Vậy là ông lặng lẽ lên Đoàn trường báo lại. Ngày hôm sau, anh
chị bị mời lên văn phòng làm bản kiểm điểm. Viết một lần chưa xong lại mời tiếp
lần hai. Đến lần ba phải công nhận đã “hôn nhau” họ mới tha cho về quê. Hết hè
chi đoàn lớp lại tiếp tục kiểm điểm. Họp suốt năm đêm liền. Cuối cùng đôi bạn
trẻ phải cam kết rằng sẽ không hôn nhau nữa mới thôi. Vậy mới có chuyện sinh
viên ở lại lớp vì yêu, bị đuổi học vì yêu là có thật!
Hà Nội thời bao cấp
Thủ đô đất chật người đông, chuyện
nhà ở luôn là vấn đề đầu tiên cần giải quyết. Các chung cư liên tục mọc lên như
nấm nhưng cũng chỉ giải quyết được một phần nhỏ chuyện bức bối này. Hà Nội thời
bao cấp không ai đủ tiền mua đất làm nhà. Tất cả đều chấp nhận sống chui rúc
trong những căn hộ ọp ẹp nhà nước cấp. Một không gian với 28m2 có cả
4 thế hệ tứ đại đồng đường cùng sinh sống là chuyện hoàn toàn bình thường. Tiếng
trẻ em khóc oe oe mỗi ngày cộng với cả mùi phân lợn, gà, chim cút… hòa lẫn với
nhau trong cái không gian đầy hỗn độn. Tất cả thành viên trong gia đình đều gồng
lên mà sống từ năm này sang năm khác.
Sau nhà ở, nước nôi khu chung cư
lại là tấn bi kịch thứ hai của Hà Nội thời bao cấp. Từ tờ mờ sáng đã thấy hình ảnh người người
nhà nhà cầm xô chậu đứng xếp hàng kéo dài hàng trăm thước trước các vòi công cộng
ngoài phố. Những khu tập thể có bể tới giờ bơm nước là đông nghịt người. Kẻ tắm
gội, người giặt giũ… làm xôm tụ cả một vùng không gian.
Xếp hàng là cả một nghệ thuật, vừa nói chuyện vừa để ý lấy chân đá thùng nước nhà mình lên trước hứng nước. Bác nào không để ý có mãi tít đằng tắp nhé. Mà xếp hàng không cẩn thận thì đánh nhau cãi nhau như chơi chả đùa. Ngày nào cũng tập thể dục vài thùng nước đầy – toàn thùng tôm sắt nhé – có lẽ vậy mà giờ mẹ cháu chê cháu còi.
Hà Nội những năm 60, 80s gắn liền
với hình ảnh xếp hàng. Xếp hàng thời ấy đã trở thành một nếp văn hóa. Mua bất cứ
thứ gì cũng phải xếp hàng. Đến hiện tại, nhắc đến cụm từ này thôi mà nhiều người cũng không khỏi rùng
mình. Người đông, chen lấn nhau, sinh ra cãi vã là điều hoàn toàn bình thường.
Ngày hè nắng nóng, hàng dài người hòa lẫn với tiếng la ó và mùi mồ hôi. Chờ
hàng tiếng đồng hồ đến lượt của mình thì cô mậu dịch viên hét lên: “Hết!”. Thế
là mọi người lại tiu nghỉu đi về. Ngày hôm sau trở lại và lặp y như vậy. Cuối
tuần, dân Hà Nội thường tổ chức các buổi ăn tươi. Tiệc có đồ ăn ngon không kém
cạnh gì so với bây giờ. Đây là bữa ăn đóng vai trò quan trọng với mỗi gia đình
Hà Nội. Cả tuần đi học, đi làm, đây là khoảng thời gian quý báu để cả nhà cùng
tụ họp, gắn kết lại với nhau. Để chuẩn bị đầy đủ thức ăn cho tiệc có khi lại mất
hết nửa tháng tem phiếu thực phẩm. Có tem rồi cả nhà lại phải phân công nhau dậy thật sớm,
đạp xe xếp hàng mua thực phẩm, dầu đun bếp. Xếp hàng từ ngày này sang ngày
khác, tháng ngày sang tháng khác dần cũng khắc sâu vào tâm khảm người Hà Nội. Cho đến hiện tại, nhiều quán phở nổi tiếng như
phở Thìn, phở Bát Đàn người ăn vẫn xếp hàng dài vòng vèo cả dãy phố, nhưng vẫn
rất kiên nhẫn và nghiêm chỉnh. Có thể nói, xếp hàng là một nét văn hóa đẹp, văn
minh của Thủ đô Hà Nội.
Thời phân phối
Thời bao cấp, mậu dịch viên luôn
là nghề “hot” nhất lúc bấy giờ. Những cô gái bán thực phẩm, lương thực bách hóa
luôn được các chàng trai dòm ngó và săn đón. Vì làm trong nội bộ nên họ luôn được
những thứ tốt nhất. Gạo sẽ được loại ngon, thịt được mua loại mông, sấn, mềm mượt.
Người thân, bạn bè vì thế có thể nhờ cậy mua hàng tốt hoặc sớm, nếu muốn có thể
cân đong già hơn chút đỉnh. Vậy đã là điều may mắn. Từ đó, quyền lực của các mậu
dịch viên chất cao như núi.
Có câu chuyện vui vui kể lại, ông Phó chủ tịch tỉnh ra cửa hàng chất đốt mua củi cho vợ. Người xếp hàng đông nghịt, ông cậy quyền thế, đưa sổ cho cô mậu dịch: “Anh là Phó Chủ tịch tỉnh, bán cho anh trước để anh còn đi công tác.” Cô này cũng không phải dạng vừa, quát lại: “Không trưởng phó chi đây hết, xếp hàng!” Vậy là ông này phải lủi thủi chạy ra sau xếp hàng. Đến gần trưa, nghe tiếng mậu dịch viên hét: “Nguyễn Hưng!” Ông lật đật: “Dạ”, rồi chen vào lấy sổ và hóa đơn để ra bãi nhận củi. Nhiều người biết ngài Phó chủ tịch, nhìn cảnh này đều không khỏi nhịn được cười!
Cưới xin thời bao cấp cũng có những
câu chuyện cười ra nước mắt. Đám cưới nông thôn ở miền Bắc giản dị lắm! Không
linh đình như Sài Gòn nhưng vẫn chan chứa nhiều niềm vui. Thời ấy, cô dâu không có áo dài thướt tha như hoa hậu mà chỉ độc
áo Hongkong trắng với quần phíp cụt lủn. Mặt cũng không trang điểm, tỉa tót mà
chỉ thuần “có sao để vậy”. Sau đó, Ủy ban cùng hai gia đình tổ chức tiệc nhỏ, hầu
hết là trà nước, thuốc. Nhà nào sang hơn thì có thêm đĩa bánh, kẹo. Tới đám cưới,
người người nhà nhà đều có chung mô típ trang trí. Trên phông nền là cặp bồ câu
trắng đang mớm mỏ. Bên cạnh là chữ đầu tên hai người lồng vào nhau trong khung
trái tim màu đỏ. Trên cùng là câu slogan quen thuộc: “Vui duyên mới không quên
nhiệm vụ”. Đám rước dâu có điều kiện thì chạy xe đạp, còn đa phần đều là đi bộ.
Mở đầu tiệc, đại diện ủy ban xã lên phát biểu.
Buổi diễn thuyết thường kéo dài hàng tiếng đồng hồ, toàn chuyện “nam ba sẵn
sàng, nữ ba đảm đang”, rồi đến Đoàn thanh niên, hai gia đình lên phát biểu. Hồi
ấy, nhà nước vẫn cho phép dùng pháo nổ.
Các đám cưới nhờ thế cũng trở nên rộn ràng và náo nhiệt hơn. Thời ấy người
ta quan niệm rằng, pháo phải to và dài, xoàng thì phải bằng đầu đũa. Có như thế
khi đốt sẽ sẽ không bị tắt nửa chừng. Pháo nổ giòn, dài từ đầu đến cuối như thế
cặp vợ chồng mới trăm năm hạnh phúc.
Tới chương trình ca nhạc, các bài
hát đều mang tinh thần chiến đấu với nhịp hành quân như Chiếc gậy Trường Sơn,
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân, Sẵn sàng bắn… Một người hát, bên dưới mọi
người sẽ vỗ tay cổ vũ theo. Cô dâu chú rể sẽ đi từng bàn mời thuốc lá. Thời ấy,
quà mừng cưới đa phần đều là hiện vật. Cơ quan mừng cái phích nước, cái mâm
nhôm. Bạn bè thì mừng cái áo gối, quần áo trẻ em, rồi xoong nồi nấu cơm, ấm nấu
nước, chậu giặt, chậu rửa bằng nhôm Hải Phòng. Quà tuy nhỏ và thực tế nhưng lại
chan chứa đầy tình thương.
Kết luận:
“Sống thời bao cấp” đưa chúng ta trở lại một Việt Nam hoàn toàn lạ lẫm. Những cô mậu dịch viên, hay tem phiếu giờ đây cũng chỉ còn tồn tại trong những ký ức xưa cũ. Đọc để hiểu, để thương, để biết rằng chúng ta cũng đã từng có một quá khứ nhiều khổ đau. Vượt lên trên tất cả, con người là sinh vật hướng về tầm cao. Những cái cũ, lạc hậu chắc chắn sẽ bị đào thải để thay thế cho những thứ tốt đẹp hơn.
Tôi thuộc thế hệ sinh ra, lớn lên và sống trọn vẹn trong thời bao cấp, thời của những tấn bi hài cười ra nước mắt. May mắn đất nước đã vượt qua thời ấy gần 30 năm. Chuyện thời bao cấp bây giờ nghe như kể chuyện cổ tích. Vâng, nó chính là “cổ tích” của một thời. Cổ tích từ thế giới lam lũ, khốn khổ mà cha ông của lớp trẻ hôm nay đã từng trải qua, đã từng chịu đựng, đã từng gồng mình lên để sống. Phải kể lại để lớp trẻ thấy ý chí của cha ông đã vượt qua cái cũ, cái lỗi thời, vượt qua cơ chế luật lệ hà khắc đã ngáng đường đi lên của mình như thế nào. Mỗi người có những kỷ niệm riêng về thời bao cấp của mình. Người cho đó là thời dễ sợ, thời của những lạc hậu và bảo thủ. Người cho đó là thời của những ấu trĩ hồn nhiên, đáng trách nhưng không đáng giận. Người lại cho đó là thời dễ thương, đói nghèo nhưng ấm áp. Tôi chứng kiến thời bao cấp với cái nhìn của riêng tôi, vừa buồn cười vừa cay đắng, vừa giận vừa thương, vừa muốn quên đi vừa không thể không nhớ. Ở đời có những thứ phải nhớ để không bao giờ lặp lại, trước khi chôn sâu vào dĩ vãng. Tôi viết cuốn tự truyện này để nhắc lại với bạn bè, người thân và gia đình tôi cái thời thật đáng ghét – thật đáng thương, thật đáng quên – thật đáng nhớ, giữa ngổn ngang những bi hài cay cực là những tấm lòng “sống để yêu nhau”. Tôi muốn gửi tới các con tôi và bạn bè của chúng, thế hệ 7x, 8x, 9x cái thời mà cha ông họ đã sống để họ yêu thêm thế hệ đi trước và tránh cho được những gì mà thế hệ trước đã lầm lạc. Cuốn sách mà các bạn cầm trong tay là kí ức của riêng tôi, nó không thể đại diện cho kí ức của tất cả những ai đã sống trong thời này. Các bạn hãy xem đây là thời bao cấp dưới cái nhìn của tôi, trong trí nhớ của tôi mà thôi. Với người khác sẽ là cái nhìn khác, kí ức khác.